Breaking News

Saturday, November 13, 2010

Hãy đặt khách hàng vào vị trí trung tâm để thành công

Những thay đổi trong cách khách hàng tiếp nhận và xử lý thông tin có được thông qua mạng xã hội, điện thoại di động, và internet, kết hợp với sự thu hẹp lợi nhuận biên, suy giảm lòng trung thành và yêu cầu cao hơn trong trách nhiệm giải trình marketing, cho thấy cần một phương pháp tiếp cận mới cho mục tiêu đặt khách hàng vào vị trí trung tâm trong mọi hoạt động của tổ chức.


 A.G. Lafley, CEO của Proctor & Gamble, đã nói rằng “Khách hàng là ông chủ”

Những nghiên cứu xác nhận quan điểm này:

* Theo một nghiên cứu vào năm 2009 của Heidrick & Struggles, mục tiêu quản lý số một cho quản lý ở cấp độc C năm nay là khách hàng - tất cả nhằm thu hút khách hàng mới, giữ chân khách hàng của và cải thiện giá trị cuộc sống của họ.


* Một nghiên cứu được thực hiện bởi Marketingprofs cho thấy nhiều marketer coi việc giữ chân và thu hút khách hàng mới là mục tiêu marketing quan trọng nhất của họ.

* Và một nghiên cứu nữa được thực hiện cách đây vài năm bởi Deloitte và Touche cho thấy việc đặt khách hàng vào vị trí trung tâm tạo ra một diện mạo tốt cho công việc kinh doanh. Nghiên cứu nhận thấy, những công ty tập trung vào khách hàng có thể sinh lợi hơn 60%, lợi nhuận trên cổ phần, tỷ lệ lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản và mức độ tăng trưởng doanh thu, thị trường có khả năng gấp 2 lần những công ty tương tự nhưng ít tập trung vào khách hàng hơn.

* Tiếp tục, một nghiên cứu gần đây của SpencerStuart với hơn 200 nhân viên marketing cho thấy chỉ có 33% tin rằng thành công của họ gắn chặt với những định hướng về khách hàng, ngoài ra, 92% CMO cho rằng họ phải sở hữu thương hiệu để thành công, so với 41% cho rằng họ phải sở hữu mối quan hệ khách hàng.

Nhận định, giữ và phát triển giá trị khách hàng quyết định sự tồn tại của marketing. Theo đó, marketing có vai trò hàng đầu trong việc đưa khách hàng vào vị trí trung tâm trong tổ chức. Vậy, làm cách nào một tổ chức làm được điều đó?

Bốn chiến thuật cần thực hiện
 

Có bốn chiến thuật: Đam mê, đảo chiều chuỗi giá trị, xây dựng mối quan hệ và trải nghiệm, thúc đẩy thiện ý mua sắm.


1. Lòng đam mê

Các tổ chức luôn đặt khách hàng ở vị trí trung tâm là những tổ chức luôn thể hiện lòng đam mê và sự thành thật với “khách hàng là ông chủ”. Họ tin rằng khách hàng là yếu tố sống còn đối với thành công của họ và nhìn nhận thế giới qua đôi mắt của khách hàng. Các marketer tại những tổ chức như thế này hiểu những thứ khách hàng muốn và mong đợi. Họ thúc đẩy, xác định giá trị giữ liệu, có phương pháp để thấu hiểu khách hàng và chia sẻ hiểu biết của mình với tất cả mọi người trong tổ chức.

2. Đảo chiều chuỗi giá trị

Những công ty tận tụy trong việc đưa khách hàng vào vị trí trung tâm sẽ thay đổi hoàn toàn chuỗi giá trị nhằm mang đến những giá trị thự sự cho khách hàng. Những thứ khách hàng cần, muốn và những ưu tiên sẽ là chất xúc tác cho việc phát triển sản phẩm, dịch vụ và lựa chọn kênh truyền thông.

3. Xây dựng mối quan hệ và trải nghiệm

Những công ty tận tụy trong việc đưa khách hàng vào vị trí trung tâm tập trung vào việc tạo ra một mối quan hệ có lợi cho cả đôi bên giữa khách hàng và tổ chức được thiết kế để tối đa hóa những trải nghiệm của khách hàng về sản phẩm và dịch vụ.

4. Thúc đẩy thiện ý mua sắm

Các công ty tận tụy trong việc đưa khách hàng vào vị trí trung tâm sẽ phân tích, lên kế hoạch và thực hiện một chiến lược khách hàng được thiết kế chu đáo, kết hợp chặt chẽ với các chương trình có khả năng tạo ra một môi trường mua bán đầy thiện ý, xây dựng và giữ chân khách hàng trung thành.

Để thực hiện bốn chiến thuật trên không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Nó cần một quy trình và những công cụ thích hợp để thấu hiểu khách hàng. Với nhiều tổ chức, điều này có thể dẫn đến những thay đổi toàn diện.

Yếu tố then chốt trong quy trình là sự hợp tác chặt chẽ giữa marketing và hoạt động phát triển sản phẩm, dịch vụ tới đảm bảo rằng sản phẩm và dịch vụ luôn ở một mức giá tốt được phân phối theo những kênh thích hợp.

Mặc dù, hầu hết các marketer đều săn lùng thứ gì đó liên quan đến việc phát triển cơ hội (ví dụ như dẫn đầu về chất lượng), và điều gì đó liên quan đến sự hài lòng của khách hàng, thì những thông số cho thấy cách các chiến lược tạo ra tiếng vang đối với khách hàng và liên quan đến những vấn đề họ quan tâm lại không được phát triển. Thậm chí nếu chúng được phát triển, thì những thông số đủ tiêu chuẩn cũng không nhiều.

Ba thông số đo lường giá trị của khách hàng

Mọi người thường hỏi chúng tôi: “Chúng tôi nên sử dụng thông số đo lường khách hàng nào?” Thực sự không có “thứ gì phù hợp cho tất cả”. Tuy nhiên, có ba thông số chung về giá trị khách hàng liên quan đến tài chính cho tất cả các tổ chức và nên được giám sát chặt chẽ.

Hãy kiểm tra nhanh những thông số giá trị khách hàng này tới hiểu cách thức quản lý chúng.

1. Tỷ lệ khách hàng bỏ đi

Giữ chân khách hàng mới gặp nhiều thử thách hơn trong môi trường kinh doanh ngày nay. Như một kết quả, nhiều công ty đang tập trung và đầu tư cho việc giữ chân khách hàng hơn là tìm kiếm khách hàng mới.

Tìm kiếm khách hàng mới có thể sẽ tốn chi phí gấp năm lần việc thỏa mãn và duy trì khách hàng hiện tại. Giữ chân được 2% khách hàng có hiệu quả về mặt lợi nhuận tương đương với việc cắt giảm chi phí 10%.

Trung bình một công ty mất 10% khách hàng mỗi năm.

Giảm 5% tỷ lệ mất khách hàng có thể gia tăng lợi nhuận từ 25 – 125%, tùy thuộc vào từng ngành.

Dữ liệu cũng cho thấy, các công ty có tỷ lệ giữ chân khách hàng cao có tốc độ phát triển nhanh hơn. Quan trọng là phải hiểu có bao nhiêu khách hàng đang bỏ chạy, bao nhiêu khách hàng ở lại và tại sao lại như vậy. Lý do khách hàng bỏ đi và ở lại thường khác nhau, bởi vậy cân bằng cả hai mặt là rất quan trọng.

Tính toán tỷ lệ khách hàng bỏ đi bằng cách đo lường số lượng khách hàng ngưng sử dụng một dịch vụ trong một khoảng thời gian cụ thể, chia cho tổng lượng khách hàng trung bình trong cùng khoảng thời gian đó. Tính toán thông số này, và tìm ra nguyên nhân khách hàng ở lại hoặc ra đi là một trong những bước đi cơ bản.

2. Tài sản khách hàng

Đối với hầu hết mọi công ty, khách hàng là tài sản có giá trị nhất mà họ có. Hầu hết các khảo sát trong mọi lĩnh vực đều cho thấy, giữ chân được một khách hàng mang lại lợi ích gấp từ 5 – 7 lần so với việc kiếm được một khách hàng mới. Lợi ích phát sinh trong suốt quá trình giữ chân được khách hàng thường liên quan đến giá trị suốt đời và tài sản duy trì khách hàng.

Đây là một phương pháp cơ bản để tính toán tài sản khách hàng duy trì được.

1. Xác định tỷ lệ duy trì khách hàng trung bình của bạn.

2. Ước tính khoảng thời gian duy trì quan hệ trung bình của một khách hàng.

3. Xác định lợi nhuận và chi phí bình quân trong gia đoạn mà mối quan hệ diễn ra.

4. Nhân lợi nhuận ròng có được với thời gian tồn tại trung bình của mối quan hệ.

Hãy làm thử ví dụ:

* Giả sử tỷ lệ duy trì khách hàng của bạn trong bốn năm là: 60%, 61%, 62% và 61%. Điều này tương đương với tỷ lệ duy trì trung bình vào khoảng 61%: (60%+61%+62%+61%)/4 = 61%.

* Phân tích này cho thấy độ dài trung bình của khoảng thời gian mà mối quan hệ diễn ra là 1/(1- tỷ lệ duy trì). Trong trường hợp này là: 1/ (1-0,61) = 2,56 năm

* Sau khi phân tích số liệu trong 4 năm, công ty xác định được lợi nhuận trung bình là 7.500 USD và chi phí trung bình trong mỗi năm là 750 USD. Tương đương lợi nhuận ròng là 6.750 USD.

* Tài sản duy trì khách hàng là 17.280 USD (6.750 * 2,56).

Tính toán tài sản duy trì khách hàng thật sự rất hữu ích trong việc hiểu được lý do tại sao cần đầu tư giữ chân khách hàng.

3. Share of Wallet và giá trị Wallet tiềm năng

Nhiều tổ chức sử dụng “share of wallet” như một phương pháp cải thiện hiểu biết biết của họ về những khu vực mà ở đó những giá trị của họ tồn tại cùng với khách hàng.

“Wallet” của khách hàng được xác định là tổng số tiền khách hàng có thể sử dụng cho một loại sản phẩm riêng biệt. “Share of wallet” là khoản tiền khách hàng sử dụng cho hàng hóa của một người bán.

Cách đơn giản nhất để tính toán “share of wallet” là đo lường tổng số tiền khách hàng chi tiêu cho sản phẩm của bạn trong tổng số tiền khách hàng chi cho hàng hóa cùng chủng loại, từ đó bạn có thể xác định tỷ lệ.

Thông qua việc nắm được “wallet” và “share of wallet”, bạn có thể nhận diện được những khách hàng trung thành nhất và những khách hàng có tiềm năng phát triển tốt nhất.

Bằng cách nào các tổ chức có thể giảm tỷ lệ khách hàng dời bỏ thương hiệu, cải thiện tài sản duy trì khách hàng và “share of wallet”? Cải thiện sức mạnh của mối quan hệ với khách hàng của nó, nâng cao mức độ thỏa mãn ở mọi điểm tiếp xúc, và nhìn nhận trải nghiệm khách hàng một cách lạc quan sẽ ảnh hưởng đến mỗi thông số trong ba thông số này.

Và chúng đại diện cho những cơ hội thực sự cho marketing tới tạo ra sự ảnh hưởng và khác biệt, bởi vì marketing có thể tác động đến cả ba yếu tố. Hiệu quả tiếp xúc, sức mạnh của mối quan hệ và trải nghiệm khách hàng, tất cả đều nằm trong phạm vi hoạt động, tầm ảnh hưởng và trách nhiệm của marketing.

Do đó, những tổ chức thực hiện marketing theo chiến lược, mục tiêu cải thiện mối quan hệ với khách hàng của nó, hiệu quả tiếp xúc, cải thiện trải nghiệm khách hàng sẽ ở một vị trí tốt hơn.

Do đó những tổ chức marketing mà điều khiển các chiến lược , những mục tiêu thể hiện, và những khái niệm mà liên quan đến sức mạnh của mối quan hệ, hiệu quả ở điểm tiếp xúc , và trải nghiệm của khách hàng sẽ ở vị trí tốt hơn để thể hiện để chứng minh được sự ảnh hưởng lên ba khái niệm giá trị khách hàng.

Theo LantaBrand
(st)

Nghệ thuật thương thuyết: Tâm lý chiến

          Một trong những vũ khí có thể làm cho một cuộc thương thuyết đang nghiêng ngửa phải thay đổi cục diện là yếu tố tâm lý. Chẳng hạn, nếu chủ đầu tư dự án “mê tít” các sản phẩm của bạn, công ty đối thủ bắt đầu chán nản trong cuộc thương thuyết, hay chủ dự án tỏ ra e ngại một điều gì đó nơi phương án của các công ty đối thủ, thì bạn đã đi gần tới mục đích thắng thế và cầm chắc trong tay một yếu tố để lạc quan!
Cũng như trong các ván cờ tướng, cờ vua, địch thủ mà bị chạm vào tâm lý rồi thì khó mà quẫy ngược lại được.


        Ngay trong những trò chơi hoặc các bộ môn thể thao, như quần vợt, bóng đá, nhất là điền kinh hoặc golf, tâm lý đóng một vai trò then chốt. Các huấn luyện viên, trước khi cho cầu thủ ra sân, chỉ mong sao tiêm vào đầu của cầu thủ ý nghĩ là họ sẽ thắng! Trong môn nhảy cao hoặc nhảy sào, vận động viên phải suy nghĩ tích cực, tin chắc mình sẽ vượt qua mức xà nào đó, bằng không thì nhảy sẽ vô ích!
Không chỉ có con người mới phải suy nghĩ tích cực. Những cuộc đá gà là gì nếu không phải một trò chơi tâm lý: có những con gà đá to xác vừa nhảy vào chiến trường đã chạy như… vịt. Chung quy chỉ vì vừa thấy con gà địch thủ đã sợ. Con gà toát mồ hôi sợ hãi là một con gà sắp thua! Lớn, nhỏ hẳn không phải là yếu tố quyết định. Cái ý chí khao khát triệt hạ đối thủ mới là yếu tố quyết định.
Trở về cuộc đàm phán, thế nào là đánh vào tâm lý? Nên dùng chiến thuật nào, kỹ thuật nào?

Thứ nhất là gây lòng tin với khách hàng về công ty và sản phẩm của mình.
Năm 1988, tôi phải đi Ai Cập để thương thuyết một dự án nhà máy điện. Hồi đó Alstom là một công ty đang ở thế “thiếu cơm áo” nên nhất thiết phải lấy cho bằng được hợp đồng. Địch thủ toàn là “đấu thủ quốc tế hạng nặng” như General Electric, Brown Boveri, Siemens, Mitsubishi… Cũng may hình ảnh của Alstom về công nghệ điện lực còn rất cao. Tôi lợi dụng luôn hình ảnh tốt đẹp đó để “đóng đinh vào cột”.
Vào ngày đầu của cuộc thương thuyết, tôi xin phép có lời tuyên bố mở màn như sau: “Công nghệ mà các bạn muốn mua hiện thời chỉ có bốn công ty trên thế giới có thể cung cấp, trong đó chỉ có công nghệ Alstom được hưởng ứng nhiều nhất. Công nghệ của Đức thì có nhà máy mới bị nổ tại Phần Lan, công nghệ của Nhật thì mới được một số nước sử dụng, e không thể đặt hết lòng tin vì số máy chạy còn ít, riêng Hoa Kỳ thì tiêu chuẩn không phù hợp với hệ thống điện của quý quốc. Trong khi đó Alstom đã tiến sang thời kỳ thứ hai của công nghệ turbin mới, trong khi các nước kia còn ở thời kỳ sơ khởi, còn học tập kinh nghiệm...”
Tất nhiên, ai mà chẳng nói được như thế! Nhưng tôi đã tiêm nọc độc vào phía khách hàng. Bạn đừng quên họ là một tập thể chứ không phải một cá nhân mua hàng. Họ sẽ phải học tập, bàn tán với nhau về những lời lẽ của tôi. Nọc độc nằm ở chỗ “nhà máy của Đức bị nổ, và Nhật thì tập tễnh (tức cũng có khả năng nổ!)”. Nọc độc này là một loại nọc tâm lý. Từ đó, cùng với nỗ lực chiều chuộng khách hàng, chúng tôi đã ký được hợp đồng.
Bẫy hay không bẫy, những yếu tố tâm lý có sức mạnh lay chuyển một thế cờ, thay đổi lòng tin của chủ đầu tư dự án. Điều cần nhấn mạnh là không phương kế nào có thể thay thế chất lượng của sản phẩm, tính cách tinh vi của công nghệ, tinh thần động viên của công ty của bạn. Cũng vì vậy yếu tố tâm lý chỉ giúp thêm mà không thay thế.


Yếu tố thứ hai phải chú ý là gây sự sợ hãi cho khách hàng.
Ngay trong những trò chơi hoặc các bộ môn thể thao, như quần vợt, bóng đá, nhất là điền kinh hoặc golf, tâm lý đóng một vai trò then chốt. Các huấn luyện viên, trước khi cho cầu thủ ra sân, chỉ mong sao tiêm vào đầu của cầu thủ ý nghĩ là họ sẽ thắng! Trong môn nhảy cao hoặc nhảy sào, vận động viên phải suy nghĩ tích cực, tin chắc mình sẽ vượt qua mức xà nào đó, bằng không thì nhảy sẽ vô ích!
Không chỉ có con người mới phải suy nghĩ tích cực. Những cuộc đá gà là gì nếu không phải một trò chơi tâm lý: có những con gà đá to xác vừa nhảy vào chiến trường đã chạy như… vịt. Chung quy chỉ vì vừa thấy con gà địch thủ đã sợ. Con gà toát mồ hôi sợ hãi là một con gà sắp thua! Lớn, nhỏ hẳn không phải là yếu tố quyết định. Cái ý chí khao khát triệt hạ đối thủ mới là yếu tố quyết định.
Trở về cuộc đàm phán, thế nào là đánh vào tâm lý? Nên dùng chiến thuật nào, kỹ thuật nào?
Thứ nhất là gây lòng tin với khách hàng về công ty và sản phẩm của mình.
Năm 1988, tôi phải đi Ai Cập để thương thuyết một dự án nhà máy điện. Hồi đó Alstom là một công ty đang ở thế “thiếu cơm áo” nên nhất thiết phải lấy cho bằng được hợp đồng. Địch thủ toàn là “đấu thủ quốc tế hạng nặng” như General Electric, Brown Boveri, Siemens, Mitsubishi… Cũng may hình ảnh của Alstom về công nghệ điện lực còn rất cao. Tôi lợi dụng luôn hình ảnh tốt đẹp đó để “đóng đinh vào cột”.
Vào ngày đầu của cuộc thương thuyết, tôi xin phép có lời tuyên bố mở màn như sau: “Công nghệ mà các bạn muốn mua hiện thời chỉ có bốn công ty trên thế giới có thể cung cấp, trong đó chỉ có công nghệ Alstom được hưởng ứng nhiều nhất. Công nghệ của Đức thì có nhà máy mới bị nổ tại Phần Lan, công nghệ của Nhật thì mới được một số nước sử dụng, e không thể đặt hết lòng tin vì số máy chạy còn ít, riêng Hoa Kỳ thì tiêu chuẩn không phù hợp với hệ thống điện của quý quốc. Trong khi đó Alstom đã tiến sang thời kỳ thứ hai của công nghệ turbin mới, trong khi các nước kia còn ở thời kỳ sơ khởi, còn học tập kinh nghiệm...”
Tất nhiên, ai mà chẳng nói được như thế! Nhưng tôi đã tiêm nọc độc vào phía khách hàng. Bạn đừng quên họ là một tập thể chứ không phải một cá nhân mua hàng. Họ sẽ phải học tập, bàn tán với nhau về những lời lẽ của tôi. Nọc độc nằm ở chỗ “nhà máy của Đức bị nổ, và Nhật thì tập tễnh (tức cũng có khả năng nổ!)”. Nọc độc này là một loại nọc tâm lý. Từ đó, cùng với nỗ lực chiều chuộng khách hàng, chúng tôi đã ký được hợp đồng.
Bẫy hay không bẫy, những yếu tố tâm lý có sức mạnh lay chuyển một thế cờ, thay đổi lòng tin của chủ đầu tư dự án. Điều cần nhấn mạnh là không phương kế nào có thể thay thế chất lượng của sản phẩm, tính cách tinh vi của công nghệ, tinh thần động viên của công ty của bạn. Cũng vì vậy yếu tố tâm lý chỉ giúp thêm mà không thay thế.

 Bạn ạ, tác dụng mạnh lắm, vì xuống thêm 10% trong một dự án 2 tỉ đô la, là xuống 200 triệu đô la rồi. Nếu là chủ đầu tư, bạn có dám từ chối không?
Cái bẫy này thường đặt các công ty địch thủ trong cuộc đấu thầu vào thế rất khó phản kháng, thứ nhất vì họ bán tín bán nghi, không tin là có thật, cho rằng khách hàng “dọa chơi” vậy thôi, vì không có văn bản viết. Thứ nhì là địch thủ bị đánh du kích, vì không thể nào phản ứng kịp: làm sao bố trí cho một cuộc xuống giá 200 triệu đô la trong vòng 24 tiếng đồng hồ?! Đôi khi hội đồng quản trị phải họp nhiều lần để lấy một quyết định như vậy!
Phía nhà đầu tư dự án, cũng phải phản ứng nhanh, tất nhiên họ sẽ đòi hỏi gia hạn để có thì giờ lấy quyết định, nhưng cuối cùng rất có nhiều khả năng là họ đầu hàng. Thế là cái bẫy tâm lý đã giúp cho bạn từ một thế tuyệt vọng chuyển sang là kẻ thắng thế.
Bẫy hay không bẫy, những yếu tố tâm lý có sức mạnh lay chuyển một thế cờ, thay đổi lòng tin của chủ đầu tư dự án. Điều cần nhấn mạnh là không phương kế nào có thể thay thế chất lượng của sản phẩm, tính cách tinh vi của công nghệ, tinh thần động viên của công ty của bạn. Cũng vì vậy yếu tố tâm lý chỉ giúp thêm mà không thay thế.
Tuy nhiên, nếu yếu về tâm lý, đường đi sẽ nhiều chông gai, cái giá phải trả để đi tới kết quả sẽ rất cao. Thử hỏi làm kinh doanh mà phải trả giá rất cao thì còn đâu là kinh doanh bền vững!

Thursday, November 11, 2010

Bách khoa thư các khoa học triết học I: Khoa học logic



Tựa sách: Bách khoa thư các khoa học triết học I: Khoa học logic
Tác giả: G.W.F HegelNgôn ngữ: Tiếng Việt
Lĩnh vực: Triết học
Dịch giả: Bùi Văn Nam Sơn
Năm xuất bản: 2009
Đơn vị xuất bản: Tri thức
Số trang: 1164 


 Downloadhttp://www.mediafire.com/?77zbv5cfif53df3
Pass: phihungftu2.co.cc 





 

Bộ sách: G.W.F Hegel – Bách khoa thư các khoa học triết học I: Khoa học logic – do NXB Tri Thức phát hành vào đầu tháng 8/2008. Một trong những điều thú vị là những lời chú giải cho những vấn đề triết học “đầy rối rắm” đến những câu thơ bay bổng của nhà thơ Bùi Giáng. Dưới đây là đoạn kết trong “Lời giới thiệu và lưu ý” của dịch giả và nhà chú giải Bùi Văn Nam Sơn.

Vào các thập niên đầu thế kỷ XX, Fereg và Husserl đả kích thuyết duy tâm lý học(Psychologismu) trong logic học cũng là vấn đề trung tâm không thèm nhắc đến tên Hegel và càng không quy chiếu đến công trình Khoa học Lôgic. Không khí “chống Hegel” từ nửa sau thế kỷ XIX ở Âu Mỹ. Nhưng hiện nay, tình hình đã đổi khác. Lôgíc học trở thành trung tâm của việc nghiên cứu về Hegel, và chính trong bối cảnh các cuộc thảo luận của triết học đương đại về ngôn ngữ đã khiến cách đặt vấn đề của Hegel trở nên lý thú: những phạm trù trong tư duy và lời nói của ta là bất tất hoặc tuân theo một “tính logic” nội tại, vượt lên khỏi những dị biệt về văn hóa và lịch sử? Một văn bản tưởng đã trở thành quá khứnay tỏ ra vẫn còn tính thời sự, và lập trường kiên quyết của Hegel buộc ta phải tìm hiểu ông một cách trung thực, để, nếu muốn bày tỏ ý kiến tán thành hoặc phản đối, đếu phải có “nỗ lực và sự kiên nhẫn của khái niệm”.

Dù nhìn từ viễn tượng nào, điều đáng ghi nhận nơi Hegel và chủ nghĩa duy tâm Đức nói chung vẫn là việc xác định nhiệm vụ của triết học (và từ đó tạo nên hứng thú bền lâu đối với triết học): Triết học là nỗ lực làm việc cho sự giải phóng tư duy và cả hành động thực tiễn của con người. Cả hai gắn liền chặt chẽ với nhau: không thể có một thực tiễn tự do nếu không có tư duy tự do cũng như không có một tư duy tự do nào lại không mang lại hiệu quả thực tiễn.

Triết học – như là “ngữ pháp” và “không gian cộng hưởng” của tự do – là chìa khóa cho một thế giới nhân đạo đích thực và không bị tha hóa. Không có “ngữ pháp” và “không gian” này, ta vẫn có một thế giới nhưng đó là thế giới xa lạ, không được thấu hiểu, không được khai phá, nghĩa là, một thế giới không phải là nơi con người cư ngụ như “trong nhà của chính mình”. Không ai chờ đợi sự tiêu biến dễ dàng của sự không tự do, nhưng quả là cần có một lao động bền bỉ nơi “vương quốc của tự do”: sự tự trị của tư duy và hành động là một tiến trình sở đắc liên tục để không tự biến mình thành đồ vật, thành bầy đàn. Vì thế “số phận” của con người phụ thuộc không ít vào những phạm trù và cấp độ phạm trù mà con người tư duy. Nhai lại một cách nói, có thể bảo rằng: “hãy cho tôi biết bạn suy nghĩ bằng những phạm trù nào, tôi sẽ nói bạn là người như thế nào”, bởi phạm trù vươn xa đến đâu, tự do của con người cũng vươn xa đến đấy. Và đó chính là giá trị bất hủ của triết học duy tâm Đức từ Kant đến Hegel, hiểu như là nền triết học về phạm trù và phê phán phạm trù, và do đó, cũng tức là nền triết học về sự tự do.

(Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn)

Lời thú tội của một sát thủ kinh tế - John Perkins

       Lời thú tội của một sát thủ kinh tế là một cuốn sách hay, và chân thật. Sách kể về cuộc đời của một nhà kinh tế, hay một EHM (sát thủ kinh tế) John Perins (tác giả của cuốn sách các bạn đang đọc). Trong sách tác giả có nói rõ công việc của một EHM cũng có chức năng gần giống như các nhân viên CIA hay NSA nhưng có điểm khác là những nhân viên làm ở CIA hay NSA do chính phủ Mỹ quản lý và nhận lương từ họ. Còn các EHM ẩn mình trong các tập đoàn lớn (như trong lĩnh vực xây dựng, lắp ghép, tư vấn,...). Nhiệm vụ của họ là ẩn mình trong các tập đoàn, tiến hành những khảo sát quốc gia mà chính phủ Mỹ nhắm tới (thường là các quốc gia kém phát triển có lợi thế về dầu mỏ hay có vị trí chiến lược), và đưa ra các dự báo kinh tế và thúc đẩy hợp tác với chính phủ với lời hứa giúp nước họ nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng, đưa những quốc gia này bước vào thiên niên kỷ mới với những lợi thế khác biết. Để thực hiện đc những dự án đó, các quốc gia này phải vay những khoản vay khổng lồ từ Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ IMF hay chính từ chính phủ Mỹ (qua trái phiếu chính phủ). Và các EHM sẽ đưa ra những dự án với mức đầu tư khổng lồ đảm bảo họ ko có khả năng trả những khoản vay này. Khi mà chính phủ nước đó chấp nhận hợp tác (đa số là phải chấp nhận vì họ bị ép buộc, đe dọa hoặc nó sẽ đem lại lợi ích cho chính chính phủ đó) thì nhiệm vụ của các EHM đc coi là hoàn thành tốt.

        Qua cuộc đời của tác giả và những câu chuyện ông kể chúng ta có thể thấy rõ bản chất chính phủ Mỹ, những thủ đoạn ngày càng tinh vi và xảo quyệt mà họ đã và đang dùng làm cho các quốc gia ở Trung Đông, ở Châu Mỹ Latinh, buộc các quốc gia này phải phục tùng những nhu cầu của Mỹ, giúp Mỹ ngày càng bành trướng và đạt được mong ước trở thành bá chủ Thế giới. Hơn nữa, ngày nay những EHM ko chỉ tồn tại ở nước Mỹ mà nó đã trở thành phổ biến, tồn tại trong bất cứ các tập đoàn ở mọi quốc gia. Nó đã mang tính toàn cầu.

Download: http://www.mediafire.com/?yibi25pgrj3arf8
Pass: phihungftu2.co.cc

Wednesday, November 10, 2010

Giáo trình Premiere pro 2.0.0 (Vietnamese)


Download: http://www.mediafire.com/?0m8eg4iwbkv4w0b
Pass: phihungftu2.co.cc

Video: "Father and daughter" Catoon

Một câu chuyện cảm động về tình cha con...



An Introduction to International Varieties of English

Product Description

This new textbook is a welcome addition to the literature on international varieties of English and can definitely be recommended as an introductory guide for students who wish to study this varied and fascinating field. -- Heinrich Ramisch This new textbook is a welcome addition to the literature on international varieties of English and can definitely be recommended as an introductory guide for students who wish to study this varied and fascinating field. This book looks at native speaker varieties of English, considering how and why they differ in terms of their pronunciation, grammar, vocabulary and spelling. It shows how the major national varieties of English have developed, why similar causes have given rise to different effects in different parts of the world, and how the same problems of description arise in relation to all 'colonial' Englishes. It covers varieties of English spoken in Britain, the USA, Canada, South Africa, Australia, New Zealand and the Falkland Islands. * Introductory text, presupposes a minimum of previous knowledge * Focuses on common traits rather than on individual varieties * Informed by latest research on dialect mixing * Exercises included with each chapter * References for further reading in each chapter.

**************
Contents
Acknowledgements v
Abbreviations and conventions used in the text vi
To readers vii
1 Background notions 1
1.1 Accent, dialect, language and variety 2
1.2 Home and colony 4
1.3 Colonial lag 5
1.4 Dialect mixing 6
Exercises 11
Recommendations for reading 12
2 English becomes a world language 13
2.1 The spread of English 13
2.2 Models of English 19
2.3 English in Scotland and Ireland 25
Exercises 28
Recommendations for reading 29
3 Vocabulary 32
3.1 Borrowing 33
3.2 Coining 40
3.3 The results 42
Exercises 44
Recommendations for reading 45
4 Grammar 46
4.1 Morphology 46
4.2 Syntax 48
4.3 Discussion 58
Exercises 59
Recommendations for reading 60
5 Spelling 61
5.1 Lexical distributional differences 62
5.2 Variation in the system 62
5.3 Conclusion 66
Exercises 67
Recommendations for reading 68
6 Pronunciation 69
6.1 Describing varieties of English 69
6.2 Input varieties 71
6.3 Influences from contact languages 73
6.4 Influences from other colonies 74
6.5 Influences from later immigrants 75
6.6 Influences from world English 75
6.7 Differences between varieties 76
Exercises 82
Recommendations for reading 83
7 The revenge of the colonised 84
7.1 Vocabulary 86
7.2 Grammar 86
7.3 Pronunciation 88
7.4 Conclusion 90
Exercises 91
Recommendations for reading 92
8 Becoming independent 93
8.1 British Englishes 95
8.2 North American Englishes 97
8.3 Southern hemisphere Englishes 98
8.4 Discussion 99
8.5 The break-up of English? 100
Exercises 102
Recommendations for reading 103
9 Standards in the colonies 104
9.1 Moving away from the standard in vocabulary 104
9.2 Moving away from the standard in grammar 105
9.3 Moving away from the standard in pronunciation 108
9.4 Discussion 110
Exercises 112
Recommendations for reading 112
Discussion of the exercises 113
References 127
Index 133


Download: http://www.mediafire.com/?u7yxc6akgpwduri
Pass: phihungftu2.co.cc

Tuesday, November 9, 2010

Tìm hiểu thuế thu nhập cá nhân

I. KHÁI NIỆM THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1. Khái niệm.
Thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối tượng nộp thuế này là mọi dân cư trong nước và người nước ngoài có thu nhập phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội. Ðồng thời, tùy theo tính chất của các khoản thu nhập cá nhân, người ta chia thu nhập làm hai loại: thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên để tính thuế cho phù hợp. Lần đầu tiên ở Anh vào năm 1799 thuế thu nhập cá nhân được đưa vào thực hiện như một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Pháp và được chính thức áp dụng vào năm 1942. Sau đó nhiều nước tư bản phát triển khác cũng áp dụng thuế này như: ở Nhật năm 1887, Ðức 1899, Mỹ 1903, pháp 1916 và Liên Xô năm 1922.
Hiện nay trên thế giới có 02 phương pháp đánh thuế: (1) Có nước tính thuế vào từng khoản thu nhập thực tế của mỗi cá nhân, (2) có nước tính thuế trên tổng thu nhập của cả hộ gia đình:
Cách thứ nhất được áp dụng phổ biến ở Anh, Nhật, Thụy Ðiển, các nước Châu Phi, Liên Xô, Hunggari, Tiệp khắc...Ưu điểm của cách này là đơn giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu kịp thời vào ngân sách Nhà nước. Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo yêu cầu phân phối lại thu nhập quốc dân qua thuế sao cho có hiệu qủa và đáp ứng được sự công bằng xã hội và nhất là đối với những cá nhân có nhiều khẩu ăn theo.
Cách thứ hai được áp dụng ở Pháp, Hà Lan...Các chuyên gia cho rằng cách này công bằng hơn về mặt đạo đức xã hội nhưng không kịp thời vì mỗi gia đình đều có ít nhất hai người trở lên. Ðã có nhiều người thì sẽ có nhiều khoản thu nhập khác nhau, do đó phải mở sổ sách kế toán, theo dõi từng nguồn thu nhập và phải đối chiếu với nơi phát sinh thu nhập, vì có nhiều phức tạp nên rất ít quốc gia áp dụng cách thứ hai.

Như vậy:

- Thuế thu nhập cá nhân là lại thuế trực thu đánh vào thu nhập chính đáng của từng cá nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người chịu thuế thu nhập cá nhân không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế khoá sang cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế.
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh: một là đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước ngoài; hai là đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu nhập, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế TNCN.
- Thuế TNCN là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế Thu nhập doanh nghiệp ở chỗ nó có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia cho dù quốc gia đó có mục tiêu hoàn thiện chính sách thuế, xây dựng một chính sách thuế có tính trung lập không nhằm nhiều mục tiêu khác nhau. Thể hiện, nó luôn quy định loại trừ một số khoản thu nhập trước khi tính thuế TNCN như thu nhập mang tính trợ cấp xã hội, khoản chi cần thiết cho cuộc sống cá nhân, gia đình người nộp thuế, khoản chi mang tính nhân đạo xã hội…
- Thuế TNCN có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh thuế rộng, liên quan chặt chẽ với hoành cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ thể, có áp dụng phương pháp luỹ tiến. Có như vậy mới đảm bảo công bằng xã hội, người có thu nhập cao hơn thì trước và sau khi nộp thuế họ vẫn còn một khoản thu nhập cao hơn so với người có thu nhập thấp khi chưa nộp thuế.
Ở miền Nam Việt Nam trước 1975, chính quyền Sài Gòn đã áp dụng thuế thu nhập cá nhân nhưng với tên gọi là thuế lợi tức lương bổng năm 1962 và sau đó được cải cách vào năm 1972.
Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (Income Tax on high - Income earner) và đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể cho phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, từ đó đến nay đã có 06 lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày 30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001( có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2001) và lần thứ 6 là pháp lệnh sửa đổi, bổ sung số 14/2004/PL-UBTVQH11 ban hàng năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 đến nay). Hiện nay việc thực hiện các quy định của pháp lệnh số 14 này được hướng dẫn bởi thông tư 81/2004/TT-BTC và thông tư số 12/2005/TT-BTC.

Để nâng cao hơn nữa tính chất quan trọng và phải có các biện pháp chế tài đủ mạnh để việc thực hiện thu thuế TNCN được đi vào ổn định, có hiệu quả, công bằng, tại kỳ họp Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật số 04/2007/QH12 - Luật thuế thu nhập cá nhân. Luật này sẽ có hiệu lực thi hành chính thức từ ngày 01/01/2009. Tại thời điểm người viết bài này thì chính phủ đang trình dự thảo nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân. Sau khi có Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành thì sẽ có thể có các Thông tư của Bộ tài chính hướng dẫn chi tiết hơn. Các thông tư số 81 và 12 sẽ đồng thời hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2009.
Do tại thời điểm viết bài này Luật thuế TNCN chưa có hiệu lực thi hành nên người viết chủ yếu dẫn chứng các quy định tại Pháp lệnh số 14, thông tư 81 và thông tư 12, các thay đổi được điều chỉnh từ ngày 01/01/2009 chúng tôi sẽ có bài viết riêng.

2. Chức năng, vai trò của thuế thu nhập cá nhân.

Mục tiêu của việc ban hành và áp dụng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, sau này là Luật thuế thu nhập cá nhân là:
Góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước:
Sự giảm dần các loại thuế xuất nhập khẩu do yêu cầu tự do hóa thương mại nên thuế thu nhập cá nhân ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước. Nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển, thu nhập bình quân đầu người của cá nhân ngày càng tăng từ đó thuế thu nhập cá nhân sẽ góp phần quan trọng vào việc tăng thu cho ngân sách Nhà nước.
Thực tế tỷ trọng thu thuế TNCN trong tổng thu ngân sách của nhiều quốc gia đã phản ánh tiến trình đó, tại các nước khối ASEAN: 5-10%, các nước phát triển có tỷ trọng 15-16% có nước đạt tới tỷ trọng 30- 40% như Anh, Mỹ. Tại Việt Nam, mới tiếp cận chính sách thu và còn phân tán ở nhiều sắc thuế nhưng cũng đã có kết quả tăng trưởng thu khá lớn trong những năm gần đây: năm 1991 thu theo chính sách thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là 62 tỷ, thì đến năm 2000 thu được 1.832 tỷ và đến năm 2005 số thu đã đạt 8.300 tỷ. Tuy vậy tỷ trọng thu cũng mới chỉ đạt khoảng 5% tổng thu ngân sách.
Góp phần thực hiện công bằng xã hội:
Thông thường, thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh vào thu nhập cao hơn mức khởi điểm thu nhập chịu thuế, không đánh thuế vào những cá nhân có thu nhập vừa đủ nuôi sống bản thân và gia đình ở mức cần thiết. Thêm vào đó khi thu nhập cá nhân tăng lên thì tỷ lệ thu thuế cũng tăng thêm. Ở nhiếu nước còn có quy định miễn, giảm thuế cho những cá nhân mang gánh nặng xã hội.
Ở nước ta hiện nay, thu nhập của các tầng lớp nhân dân có sự chênh lệch nhau, số đông dân cư có thu nhập còn thấp, nhưng cũng có một số cá nhân có thu nhập khá cao, nhất là những cá nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khu chế xuất hoặc có một số cá nhân người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Mặc dù thuế thu nhập cá nhân chưa mang lại số thu lớn cho ngân sách Nhà nước, song xét trên phương diện công bằng xã hội và phương diện công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước thì thuế thu nhập cá nhân có vị trí cực kỳ quan trọng, do đó việc điều tiết thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao là cần thiết, đảm bảo thực hiện chính sách công bằng xã hội.


II. ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ, THU NHẬP CHỊU THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1. Ðối tượng nộp thuế.

Các cá nhân là công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao động ở nước ngoài, cá nhân khác định cư tại Việt Nam có thu nhập đến mức phải chịu thuế theo quy định của pháp luật đều là đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân. Cá nhân khác định cư tại Việt Nam là người không mang quốc tịch Việt Nam, nhưng định cư không thời hạn tại Việt Nam; người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.

2. Thu nhập chịu thuế và không chịu thuế.

2.1 Thu nhập chịu thuế.
Ðối tượng chịu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao bao gồm thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên.
Thu nhập thường xuyên: được hiểu là các khoản thu nhập phát sinh thường xuyên, có tính chất đều đặn và ổn định trong năm và có thể dự tính được, gao gồm:
i) Các khoản thu nhập dưới các hình thức tiền lương, tiền công, tiền thù lao, bao gồm cả tiền lương làm thêm giờ, lương ca 3, lương tháng thứ 13 (nếu có); tiền phụ cấp; tiền trợ cấp thay lương nhận từ quỹ bảo hiểm xã hội; tiền ăn trưa, ăn giữa ca (nếu nhận bằng tiền);
ii) Tiền thưởng tháng, quý, năm, thưởng đột xuất nhân dịp ngày lễ, tết, ngày thành lập ngành, thưởng từ các nguồn, dưới các hình thức: tiền, hiện vật;
iii) Thu nhập do tham gia dự án, hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, hội đồng quản lý, hội đồng doanh nghiệp;
iv) Tiền bản quyền sử dụng sáng chế, nhãn hiệu, tác phẩm; thu nhập về tiền nhuận bút;
v) Các khoản thu nhập của các cá nhân không thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp như: thu nhập từ dịch vụ khoa học, kỹ thuật, dịch vụ tin học, dịch vụ tư vấn, thiết kế, kiến trúc, đào tạo; hoạt động biểu diễn, tổ chức biểu diễn; quảng cáo; hoạt động thể dục thể thao; dịch vụ đại lý; thu nhập từ hoa hồng môi giới; dịch vụ khác;
vi) Các khoản thu nhập không tính trong tiền lương, tiền công được chi trả hộ như tiền nhà, điện, nước; riêng tiền nhà tính theo số thực tế chi trả hộ nhưng không vượt quá 15% tổng thu nhập chịu thuế. Trường hợp cá nhân ở tại trụ sở làm việc thì thu nhập chịu thuế trong trường hợp này căn cứ vào tiền thuê nhà hoặc chi phí khấu hao tính theo tỷ lệ giữa diện tích cá nhân sử dụng với diện tích của căn nhà và cũng được tính tối đa 15% tổng thu nhập chịu thuế. Trường hợp chứng từ chi trả tiền nhà có cả tiền ăn, tiền phục vụ thì số thực tế chi trả hộ chỉ tính trên tiền nhà.
vii) Các khoản thu nhập khác mà cá nhân được hưởng từ cơ quan chi trả thu nhập.
Thu nhập không thường xuyên: là các khoản thu nhập phát sinh theo từng lần, từng đợt riêng lẻ, không có tính chất đều đặn, bao gồm:
i) Thu nhập về chuyển giao công nghệ (trừ trường hợp biếu, tặng) bao gồm:
- Chuyển giao các đối tượng sở hữu công nghiệp: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, xuất xứ hàng hoá, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn và nhãn hiệu hàng hóa đang trong thời hạn được pháp luật Việt Nam bảo hộ và được phép chuyển giao.
- Chuyển giao các bí quyết về công nghệ, kiến thức dưới dạng phương án công nghệ, các giải pháp kỹ thuật, quy trình công nghệ, tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ thuật, phần mềm máy tính (được chuyển giao theo Hợp đồng chuyển giao công nghệ), thông tin dữ liệu về công nghệ chuyển giao có kèm hoặc không kèm theo máy móc thiết bị.
- Chuyển giao các giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ.
- Thực hiện các hình thức dịch vụ hỗ trợ chuyển giao công nghệ để bên nhận có được năng lực công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm và/hoặc dịch vụ với chất lượng được xác định trong Hợp đồng bao gồm:
+ Hỗ trợ trong việc lựa chọn công nghệ, hướng dẫn lắp đặt thiết bị, vận hành thử các dây chuyền thiết bị nhằm áp dụng công nghệ được chuyển giao;
+ Tư vấn quản lý công nghệ, tư vấn quản lý kinh doanh, hướng dẫn thực hiện các quy trình công nghệ được chuyển giao;
+ Đào tạo huấn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý của công nhân, cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý để nắm vững công nghệ được chuyển giao.
ii) Trúng thưởng xổ số dưới các hình thức, kể cả trúng thưởng khuyến mại.
2.2 Thu nhập không chịu thuế.
Các khoản thu nhập sau đây sẽ không thuộc diện chịu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao:
i). Các khoản phụ cấp do Nhà nước Việt Nam quy định áp dụng đối với thu nhập phát sinh tại Việt Nam:
i.1). Phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với những nghề hoặc công việc ở những nơi có điều kiện độc hại, nguy hiểm;
i.2). Phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút, phụ cấp đặc biệt đối với những nơi xa xôi hẻo lánh, khí hậu xấu, vùng kinh tế mới, đảo xa đất liền, vùng biên giới có điều kiện khó khăn (không bao gồm phụ cấp xa Tổ quốc của người nước ngoài);
i.3). Phụ cấp đặc thù của một số ngành nghề theo quy định của Nhà nước;
i.4). Phụ cấp lưu động áp dụng với một số nghề hoặc công việc phải thường xuyên thay đổi địa điểm làm việc và nơi ở;
i.5). Phụ cấp chức vụ, phụ cấp trách nhiệm đối với cán bộ, công chức;
i.6). Phụ cấp thâm niên đối với lực lượng vũ trang, cơ yếu và hải quan; phụ cấp an ninh quốc phòng;
i.7). Phụ cấp ưu đãi đối với cán bộ hoạt động cách mạng trước năm 1945;
i.8). Các khoản phụ cấp khác có nguồn chi từ ngân sách Nhà nước;
Mức chi các khoản phụ cấp bằng tiền được xác định theo quy định của cấp có thẩm quyền và phù hợp với chế độ quản lý tài chính hiện hành. Đối với người nước ngoài, số tiền phụ cấp được xác định trên cơ sở tiền lương cơ bản ghi trong hợp đồng và mức phụ cấp do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định chung cho mọi đối tượng.
ii). Tiền công tác phí là các khoản tiền trả cho phương tiện đi lại, tiền thuê phòng ngủ có chứng từ hợp lý, tiền lưu trú theo chế độ; trường hợp khoán công tác phí thì chỉ được trừ những chi phí trên;
iii). Tiền ăn định lượng theo chế độ quy định đối với một số công việc, một số nghề đặc biệt; bữa ăn tại chỗ, ăn trưa, ăn giữa ca (trừ trường hợp nhận bằng tiền);
iv) Các khoản trợ cấp xã hội của các đối tượng hưởng chính sách xã hội như: thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công giúp đỡ cách mạng; trợ cấp khó khăn đột xuất, tiền trợ cấp hoặc bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp giải quyết các tệ nạn xã hội; các khoản trợ cấp khác từ ngân sách nhà nước;
v). Tiền bồi thường bảo hiểm do tham gia bảo hiểm con người và tài sản;
vi). Trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo chế độ Nhà nước quy định.
Trường hợp cá nhân được hưởng khoản trợ cấp khi thôi việc tại một đơn vị này để chuyển sang làm việc ở một đơn vị khác trong cùng một Công ty, Văn phòng Công ty đa quốc gia thì không áp dụng quy định này.
vii) Trợ cấp điều động về cơ sở sản xuất theo quy định của Nhà nước, bao gồm cả trợ cấp chuyển vùng một lần của người nước ngoài đến cư trú tại Việt Nam.
viii). Tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh, các giải thưởng quốc tế, các giải thưởng quốc gia do Nhà nước Việt Nam tổ chức, công nhận;
ix). Tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được Nhà nước phong tặng như: Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, Anh hùng Lao động, Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Nghệ sỹ Nhân dân, Nghệ sỹ ưu tú và các danh hiệu khác được Nhà nước phong tặng; tiền thưởng hoặc chế độ đãi ngộ khác từ ngân sách Nhà nước;
x). Tiền nộp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế từ tiền lương, tiền công của người lao động. Đối với người nước ngoài đã nộp khoản tiền theo chế độ bắt buộc ở nước ngoài có tính chất như tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của Việt Nam thì phải xuất trình chứng từ chứng minh.
xi). Thu nhập của chủ hộ kinh doanh cá thể, của các cá nhân đã thuộc diện chịu thuế thu nhập doanh nghiệp;
xii). Các lợi ích được hưởng do cơ quan chi trả thu nhập thanh toán như: chi phí đào tạo nhân viên trả cho nơi đào tạo, chi vé máy bay về phép của người nước ngoài (là đối tượng nộp thuế), học phí cho con của người nước ngoài trả trực tiếp cho các cơ sở giáo dục tại Việt Nam thuộc các cấp giáo dục từ mầm non đến trung học phổ thông.
Ngoài các khoản thu nhập thuộc đối tượng chịu thuế hoặc không thuộc đối tượng chịu thuế kể trên, còn một số khoản được coi là thu nhập đặc biệt và tạm thời chưa đưa vào đối tượng chiụ thuế: thu nhập về lãi tiền gửi ngân hàng, lãi tiền gửi tiết kiệm, lãi tiền cho vay vốn, lãi mua tín phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, cổ phiếu, thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán, chênh lệch mua bán chứng khoán

III. CĂN CỨ TÍNH THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
Căn cứ tính thuế thu nhập cá nhân là thu nhập chịu thuế và thuế suất được quy định tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và khả năng thu nhập, yêu cầu điều tiết trong từng điều kiện cụ thể.
1. Thu nhập chịu thuế.
1.1 Thu nhập thường xuyên.
Thu nhập thường xuyên chịu thuế là tổng thu nhập của từng cá nhân bình quân tháng trong năm nằm trong giới hạn phải nộp thuế do biểu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao quy định (đối với công dân Việt Nam và cá nhân khác định cư tại Việt Nam thu nhập bình quân tháng trong năm là trên 5.000.000 đồng; trên 8.000.000 đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài).
Riêng đối với ca sỹ như diễn viên thanh nhạc biểu diễn các loại hình nghệ thuật ca-nhạc kịch, cải lương, tuồng, chèo, dân ca; nghệ sỹ xiếc, múa; cầu thủ bóng đá; vận động viên chuyên nghiệp có xác nhận của cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành, được trừ 25% thu nhập khi xác định thu nhập chịu thuế
Thu nhập thường xuyên chịu thuế được tính như sau:
Công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao động ở nước ngoài, cá nhân khác định cư tại Việt Nam: lấy tổng thu nhập nhận được trong năm kể cả thu nhập phát sinh ở nước ngoài chia 12 tháng (theo năm dương lịch).
Người nước ngoài được coi là cư trú tại Việt Nam nếu ở tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên: lấy tổng thu nhập nhận được trong năm bao gồm thu nhập phát sinh tại Việt Nam và thu nhập phát sinh ngoài Việt Nam chia cho 12 tháng.
Người nước ngoài ở tại Việt Nam dưới 183 ngày thì được coi là không cứ trú ở Việt Nam, trong trường hợp này thu nhập thường xuyên chịu thuế là tổng thu nhập phát sinh tại Việt Nam trong thời gian đó.
1.2 Thu nhập không thường xuyên.
Thu nhập không thường chịu thuế là số thu nhập của từng cá nhân trong từng lần phát sinh thu nhập nằm trong mức giới hạn phải nộp thuế thu nhập do biểu thuế quy định.

2. Thuế suất.

2.1 Ðối với thu nhập thường xuyên.
Thuế thu nhập đối với thu nhập thường xuyên được áp dụng biểu thuế suất lũy tiến từng phần có phân biệt giữa người Việt Nam và người nước ngoài. Biểu thuế chia thành các nhóm sau:
Ðối với công dân Việt Nam và cá nhân khác định cư tại Việt Nam, thuế thu nhập theo biểu thuế lũy tiến từng phần
Riêng đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam dưới 183 ngày trong năm tính thuế thì áp dụng thuế suất thống nhất là 25 % trên tổng số thu nhập.
Trường hợp công dân Việt Nam trong năm vừa có thời gian làm việc ở trong nước, vừa có thời gian làm việc ở nước ngoài thì thu nhập chịu thuế bình quân tháng được xác định bằng tổng thu nhập phát sinh ở trong nước và ở nước ngoài chia cho 12 tháng, hoặc xác định theo thu nhập chịu thuế bình quân tháng tính cho thời gian ở trong nước, thời gian ở nước ngoài


2.2 Ðối với thu nhập không thường xuyên.
i.) Đối với thu nhập về chuyển giao công nghệ là khoản thu nhập có giá trị trên 15 triệu đồng tính cho từng hợp đồng, không phân biệt số lần chi trả;
ii.) Đối với thu nhập về trúng thưởng xổ số dưới các hình thức, kể cả trúng thưởng khuyến mại là khoản thu nhập có giá trị trên 15 triệu đồng tính cho từng lần trúng thưởng và nhận giải thưởng.
2.3 Thuế thu nhập cá nhân và Hiệp định tránh đánh thuế hai lần.
Hiệp định tránh đánh thuế trùng mà Chính phủ Việt Nam ký với Chính phủ một số nước có tác dụng đối với việc nộp thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam của người nước ngoài như sau:
Hiệp định tránh đánh thuế trùng mà Việt Nam ký với các nước có tác dụng tránh đánh thuế trùng thuế thu nhập cá nhân của người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam. Trường hợp người nước ngoài đã nộp thuế thu nhập tại Việt Nam thì họ sẽ được cấp chứng từ để làm căn cứ miễn thuế hoặc giảm thuế ở nước họ.
Trường hợp cá nhân Việt Nam trong năm vừa làm việc trong nước vừa làm việc ở nước ngoài thì thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập được tính như sau:
Trong trường hợp này, cá nhân phải thực hiện quyết toán thuế tại Việt Nam. Cá nhân phải tổng hợp thu nhập phát sinh tại Việt Nam và ngoài Việt Nam để tính thu nhập bình quân tháng, trên cơ sở tổng thu nhập cả năm chia cho 12 tháng và xác định số thuế phải nộp theo biểu thức tương ứng, cụ thể là: thời gian ở Việt Nam tính theo biểu thuế quy định đối với công dân Việt Nam và cá nhân khác định cư tại Việt Nam; thời gian ở nước ngoài thì tính theo biểu thuế quy định đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam lao động công tác ở nước ngoài.
Trường hợp cá nhân đã nộp thuế cá nhân ở nước ngoài và có chứng từ nộp thuế thu nhập cá nhân tại nước đó thì được trừ số thuế đã nộp ở nước ngoài, nhưng không vượt qúa số thuế phải nộp tính trên số thu nhập chịu thuế từ nước ngoài theo biểu thuế của Việt Nam. Nếu cá nhân có thu nhập ở các nước đã ký Hiệp định tránh đánh thuế trùng với Chính phủ Việt Nam thì thực hiện theo nội dung của Hiệp định.

IV. MIỄN THUẾ, GIẢM THUẾ

Các trường hợp miễn thuế, giảm thuế.
Cá nhân nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, địch họa, tai nạn ...làm thiệt hại về tài sản, thu nhập, ảnh hưởng đến đời sống bản thân thì cá nhân nộp thuế được xét miễn, giảm thuế trong năm tùy theo mức độ thiệt hại. Số thuế được xét miễn, giảm bằng tỷ lệ giữa số thiệt hại so với thu nhập chịu thuế trong năm, nhưng không vượt qúa số tiền thuế phải nộp cả năm.
Với một số trường hợp đặc biệt, liên quan đến lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội quốc gia thì được xem xét miễn, giảm thuế.
Trong trường hợp chờ quyết định miễn, giảm thuế, cá nhân nộp thuế vẫn phải nộp đủ số thuế theo quy định. Khi có quyết định miễn, giảm thuế sẽ được thoái trả số thuế được miễn, giảm bằng cách trừ vào số thuế phải nộp kỳ sau hoặc được cơ quan ủy nhiệm thu trả lại tiền thuế đã khấu trừ theo quyết định của cơ quan thuế.

V. KÊ KHAI, NỘP THUẾ

1. Kê khai thuế

1.1 Đối tượng kê khai thuế

- Cơ quan chi trả thu nhập cho cá nhân có thu nhập đến mức phải khấu trừ thuế.
- Cá nhân đăng ký nộp thuế tại cơ quan thuế, kể cả trường hợp uỷ quyền cho các tổ chức, cá nhân được phép kinh doanh dịch vụ tư vấn thuế theo quy định của pháp luật.
1.2 Nơi kê khai thuế
- Cơ quan chi trả thu nhập có hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc cơ quan thuế cấp nào quản lý thì kê khai nộp thuế thu nhập cá nhân tại cơ quan thuế đó.
- Cơ quan chi trả thu nhập không có hoạt động sản xuất kinh doanh thì kê khai, nộp thuế tại Cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đóng trụ sở cơ quan.
- Cá nhân đăng ký thuế tại cơ quan thuế thì kê khai, nộp thuế tại Cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

2. Nộp thuế thu nhập cá nhân.


Thời hạn nộp tờ khai cho cơ quan thuế và nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước chậm nhất vào ngày 20 của tháng tiếp theo tháng phát sinh thu nhập.
Đối với cơ quan chi trả thu nhập, việc kê khai, tạm nộp thuế hàng tháng được thực hiện như sau:
Thực hiện khấu trừ thuế theo Biểu thuế luỹ tiến từng phần đối với khoản chi trả thu nhập cho cá nhân thuộc sự quản lý của cơ quan chi trả thu nhập; cá nhân có ký hợp đồng lao động ổn định (không xác định thời hạn) và các trường hợp ký hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động thời vụ.
Thực hiện khấu trừ thuế theo Biểu thuế luỹ tiến từng phần đối với khoản chi trả thu nhập cho cá nhân thuộc sự quản lý của cơ quan chi trả thu nhập; cá nhân có ký hợp đồng lao động ổn định (không xác định thời hạn) và các trường hợp ký hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động thời vụ.
Đối với khoản chi trả thu nhập cho cá nhân là người nước ngoài không cư trú tại Việt Nam thì cơ quan chi trả thu nhập có trách nhiệm khấu trừ tiền thuế và lập tờ khai theo mẫu
Đối với thu nhập không thường xuyên: Thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập không thường xuyên nộp cho từng lần phát sinh thu nhập. Cơ quan chi trả thu nhập thực hiện khấu trừ tiền thuế và cấp biên lai thuế khi chi trả cho người có thu nhập. Cơ quan chi trả thu nhập có trách nhiệm lập tờ khai nộp thuế thu nhập không thường xuyên theo mẫu của tháng phát sinh thu nhập về số người, số thu nhập, số tiền thuế đã khấu trừ, số tiền thù lao được hưởng, số tiền thuế phải nộp ngân sách nhà nước.

3. Thù lao được hưởng của cơ quan chi trả thu nhập

- Theo pháp lệnh hiện hành thì cơ quan chi trả thu nhập được phép trích lại 0,5% tiền thu lao để trang trải chi phí cho việc tổ chức thu, nộp thuế tuy nhiên theo luật quản lý thuế thì từ ngày 01/01/2007 khỏan thù lao 0.5% mà cơ quan chi trả thu nhập được hưởng sẽ không còn và phải nộp vào ngân sách đủ 100% số thuế đã khấu trừ.

4. Quyết tóan thuế


4.1 Quyết tóan tại cơ quan chi trả thu nhập
- Cá nhân thuộc đối tượng quyết toán thuế tại cơ quan chi trả thu nhập lập giấy uỷ quyền quyết toán thuế thu nhập cá nhân theo mẫu và nộp cho cơ quan chi trả thu nhập vào tháng 1 của năm sau năm quyết toán hoặc trước khi kết thúc hợp đồng (đối với những cá nhân có hợp đồng kết thúc trước ngày 31/12 và không còn các khoản thu nhập phát sinh trong năm). Trên cơ sở giấy uỷ quyền quyết toán thuế thu nhập cá nhân, cơ quan chi trả thu nhập tổng hợp quyết toán thuế theo mẫu số, lập bảng kê chi tiết của các cá nhân theo mẫu và gửi cho cơ quan thuế chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày 31/12 của năm trước.
- Trên cơ sở tờ khai quyết toán thuế, cơ quan chi trả thu nhập phải nộp số thuế còn thiếu vào Ngân sách Nhà nước chậm nhất không quá ngày 10 tháng 3 năm sau; trường hợp số thuế đã nộp lớn hơn số phải nộp thì được bù trừ vào số thuế phải nộp của kỳ sau. Trường hợp không phát sinh số thuế phải nộp kỳ sau thì cơ quan chi trả thu nhập cấp biên lai xác nhận số thuế đã khấu trừ trong năm cho các cá nhân có số thuế nộp thừa để từng cá nhân kê khai tờ khai thuế năm nộp cho cơ quan thuế, thực hiện thoái trả tiền thuế theo hướng dẫn.
4.2 Quyết tóan tại cơ quan thuế
- Cá nhân thuộc đối tượng quyết toán thuế tại cơ quan thuế phải nộp tờ khai quyết toán thuế năm theo mẫu cho cơ quan thuế như sau:
- Cá nhân có thu nhập ổn định tại một cơ quan chi trả thu nhập nhưng có thu nhập phát sinh ở những nơi khác thì được lựa chọn nộp tờ khai quyết toán thuế năm cho cơ quan thuế địa phương nơi làm việc chính hoặc cơ quan thuế nơi có thu nhập phát sinh nhiều nhất.
- Cá nhân có thu nhập ổn định tại một cơ quan chi trả thu nhập, trong năm có sự thay đổi cơ quan công tác thì nộp tờ khai quyết toán thuế năm cho cơ quan thuế địa phương nơi đang làm việc, trường hợp không làm việc tiếp ở cơ quan nào thì nộp tờ khai quyết toán thuế năm tại cơ quan thuế nơi làm việc cuối cùng của năm quyết toán.
- Cá nhân đã đăng ký kê khai, nộp thuế tại cơ quan thuế nào thì nộp tờ khai quyết toán thuế năm cho cơ quan thuế đó.
Thời hạn nộp tờ khai quyết toán thuế năm chậm nhất vào ngày 90 ngày kể từ ngày 31/12 của năm trước.
Trên cơ sở tờ khai quyết toán thuế, cá nhân phải nộp số thuế còn thiếu trước ngày 10 tháng 3 năm sau hoặc chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày kết thúc hợp đồng, trường hợp có số thuế nộp thừa thì sẽ được thoái trả tiền thuế.

5. Thoái trả thuế

- Cá nhân khi quyết toán thuế năm có số thuế thu nhập đã tạm nộp trong năm lớn hơn số phải nộp, trừ trường hợp cá nhân đã được cơ quan chi trả thu nhập bù trừ vào số thuế phải nộp của kỳ sau.
- Các trường hợp khác được thoái trả tiền thuế theo quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Hồ sơ đề nghị thóai trả thuế bao gồm:
Đơn đề nghị thoái trả theo mẫu
Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu (bản photocopy).
Tờ khai quyết toán thuế.
Chứng từ khấu trừ thuế thu nhập, Biên lai thuế thu nhập (bản chính)
- Chứng từ xác định tình trạng kết thúc thời gian làm việc như: Quyết định nghỉ hưu, Quyết định thôi việc, Biên bản thanh lý hợp đồng, Bảng kê xác định ngày cư trú ... (nếu có).